==HOTLINESHOW==  ==HOTLINESHOWOTHER==

Hải Nam là tỉnh cực nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh gồm nhiều đảo, trong đó đảo lớn nhất được gọi là đảo Hải Nam. Tỉnh lỵ là thành phố Hải Khẩu. Đảo Hải Nam là đảo lớn nhất dưới quyền kiểm soát của Trung Quốc (đảo Đài Loan lớn hơn nhưng nằm dưới quyền kiểm soát của Trung Hoa Dân Quốc) ...

Hồ Thiên Trì Hồ Thiên Trì

Hải Nam là tỉnh cực nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh gồm nhiều đảo, trong đó đảo lớn nhất được gọi là đảo Hải Nam. Tỉnh lỵ là thành phố Hải Khẩu. Đảo Hải Nam là đảo lớn nhất dưới quyền kiểm soát của Trung Quốc (đảo Đài Loan lớn hơn nhưng nằm dưới quyền kiểm soát của Trung Hoa Dân Quốc) ...

Nằm ở biển Đông, ngoài hải khơi và ngăn cách với bán đảo Lôi Châu của tỉnh Quảng Đông tại phía bắc bởi eo biển Quỳnh Châu. Về phía tây của đảo Hải Nam là vịnh Bắc Bộ. Ngũ Chỉ Sơn (1.876 m) là ngọn núi cao nhất đảo. Từ năm 1988, Hải Nam tách khỏi tỉnh Quảng Đông, trở thành tỉnh riêng, đồng thời là một đặc khu kinh tế của Trung Quốc.

 

Đảo Hải Nam - Trung Quốc

Địa Lý

Đảo Hải Nam dài 155 kilômét (96 mi) và rộng 169 km (105 mi). Hải Nam tách biệt với bán đảo Lôi Châu tại đại lục Trung Quốc qua eo biển Quỳnh Châu, đảo Hải Nam là hòn đảo lớn nhất nằm dưới quyền kiểm soát của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Diện tích của đảo Hải Nam là 32.900 km2 (12.700 sq mi), chiếm 99,7% diện tích toàn tỉnh) và gần tương đương với Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Ở phía tây đảo Hải Nam là vịnh Bắc Bộ. Hải Nam là tỉnh cực nam của Trung Quốc, nằm ở phía nam của chí tuyến bắc, lượng nhiệt và lượng mưa phong phú.

Ngũ Chỉ Sơn (1.840 m) là núi cao nhất Hải Nam. Các đỉnh núi cao trên 1.500 mét khác tại Hải Nam là Anh Ca lĩnh, Nga Tông lĩnh, Hầu Mi lĩnh, Nhã Gia đại lĩnh, Điếu La sơn. Có thể phân các đồi núi tại Hải Nam thành ba dãy núi lớn:

  • Dãy núi Ngũ Chỉ Sơn, ở trung bộ của đảo, đỉnh chính là Ngũ Chỉ Sơn cao 1840 mét.
  • Dãy núi Anh Ca Lĩnh, ở tây bắc của Ngũ Chỉ Sơn, đỉnh chính là Anh Chủy phong cao 1811,6 mét.
  • Dãy núi Nhã Gia Đại Lĩnh, ở tây bộ của đảo, đỉnh chính cao 1519,1 mét.

Hải Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Biến đổi nhiệt độ trong năm dưới 15 °C (27 °F). Các tháng lạnh nhất là tháng 1 và tháng 2, khi nhiệt độ không khí giảm xuống 16 đến 21 °C (61 đến 70 °F); các tháng nóng nhất là tháng 7 và 8, nhiệt độ trung bình khi đó là 25 đến 29 °C (77 đến 84 °F). Ngoại trừ các khu vực đồi núi ở trung tâm hòn đảo, nhiệt độ trung bình ngày ở Hải Nam đều trên 10 °C (50 °F). Mùa hè ở phía bắc hòn đảo có thời tiết nóng, với nhiệt độ có thể cao hơn 35 °C (95 °F) vào 20 ngày trong năm. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.500 đến 2.000 milimét (59 đến 79 in) và có thể còn lên đến 2.400 milimét (94 in) ở các khu vực trung tâm và phía đông, và chỉ đạt 900 milimét (35 in) tại các khu vực ven biển tây nam. Phần phía đông của đảo Hải Nam nằm trên đường đi của các cơn bão nhiệt đới, và 70% lượng mưa hàng năm có bắt nguồn từ các cơn bão hay mưa trong mùa hè. Các trận lũ lớn xảy ra là do ảnh hưởng của bão nhiệt đới và chúng có thể gây ra nhiều khó khăn cho cư dân địa phương.

Đảo Hải Nam - Trung Quốc

Khoảng tháng 1 và tháng 2, tại các vùng ven biển trên đảo Hải Nam, đặc biệt là ở phần phía bắc, xảy ra hiện tượng sương mù dày đặc. Điều này là do không khí lạnh mùa đông tiếp xúc với nước biển ấm. Sương mù diễn ra cả ngày lẫn đêm, và được phân bổ đều. Tầm nhìn có thể giảm xuống 50 mét trong nhiều ngày tại một thời điểm. Trong giai đoạn này, cư dân địa phương thường đóng cửa sổ để chống hiện tượng nồm.

Hầu hết sông tại Hải Nam bắt nguồn từ khu vực trung tâm đảo và chảy theo các hướng khác nhau. Việc bốc hơi vào mùa khô ở khu vực gần biển khiến mực nước các sông giảm đáng kể. Có rất ít hồ tự nhiên tại Hải Nam. Hồ chứa nhân tạo được biết đến nhiều nhất tại Hải Nam là hồ chứa Tùng Đào ở trung-bắc của đảo.

Có một số hòn đảo nhỏ nằm gần bờ của đảo lớn Hải Nam như:

  • Đảo Đại Châu, nằm cách bờ biển Vạn Ninh 5 km.
  • Đảo Hải Điện, nằm ở cửa sông Nam Độ, phía bắc của Hải Khẩu.
  • Đảo Tân Phụ , nằm ở cửa sông Nam Độ, phía bắc của Hải Khẩu, ở phía đông đảo Hải Điện.
  • Đảo Phượng Hoàng, một đảo nghỉ dưỡng nhân tạo được xây dựng trên vịnh Tam Á.
  • Đảo Ngô Chi Châu, nằm tại vịnh Hải Đường.
  • Quần đảo Thất Châu, nằm ở đông bộ Văn Xương.

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng tuyên bố chủ quyền với một số hòn đảo nhỏ trên biển Đông, quy thuộc chúng vào thành phố cấp địa khu Tam Sa của tỉnh Hải Nam. Chúng phủ Trung Quốc quy định địa giới thành phố Tam Sa trải dài 900 km theo chiều đông-tây, 1800 km theo chiều bắc-nam, diện tích vùng biển khoảng 2 triệu km². Tam Sa là thành phố có diện tích đất liền nhỏ nhất, tổng diện tích lớn nhất và có dân số ít nhất tại Trung Quốc. Các đảo này nằm cách xa hàng trăm km về phía nam của đảo Hải Nam, do vậy có điều kiện khí hậu cũng như hệ động, thực vật khác nhau. Trong đó, quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) do Trung Quốc kiểm soát với đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng) là lớn nhất, đảo này cũng là trung tâm hành chính của thành phố Tam Sa. Ở quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa), Trung Quốc cũng kiểm soát một vài thực thể địa lý. Ngoài ra, Trung Quốc cũng quy bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough thuộc phạm vi quản lý của thành phố Tam Sa. Trung Quốc cũng xem bãi ngầm James (Tăng Mẫu) ở gần bờ biển đảo Borneo của Malaysia là cực nam của lãnh thổ nước mình.

Đảo Hải Nam - Du lịch Trung Quốc

Dân Tộc

Người Lê là các cư dân ban đầu tại Hải Nam. Họ được cho là hậu duệ của các bộ lạc Bách Việt tại Trung Quốc, họ đã định cư trên đảo từ 7 đến 27 nghìn năm trước. Người Lê hiện nay sinh sống chủ yếu tại 9 huyện thị ở khu vực giữa và phía nam của Hải Nam – đó là các thành phố Tam Á, Ngũ Chỉ Sơn và Đông Phương, các huyện tự trị là Bạch Sa, Lăng Thủy, Lạc Đông, Xương Giang, Quỳnh Trung và Bảo Đình. Khu vực người Lê định cư chiếm diện tích 18.700 kilômét vuông (7.200 sq mi), tức khoảng 55% diện tích toàn tỉnh.

Năm 46 TCN, triều đình nhà Hán thấy cuộc chinh phục tốn quá nhiều chi phí và từ bỏ hòn đảo. Khoảng thời gian đó, người Hán cùng với các binh sĩ và tướng lĩnh bắt đầu nhập cư đến đảo Hải Nam từ lục địa. Trong số đó, có một số là con cháu của những người đã bị trục xuất đến Hải Nam vì lý do chính trị. Hầu hết trong số họ đến đảo Hải Nam từ các khu vực thuộc Quảng Đông, Phúc Kiến và Quảng Tây hiện nay. Thời nhà Tống, lần đầu tiên có một lượng lớn người Hán di cư đến Hải Nam, họ chủ yếu định cư ở phía bắc của hòn đảo. Trong thế kỷ 16 và 17, tiếp tục có một lượng lớn người Hán từ Phúc Kiến và Quảng Đông nhập cư đến Hải Nam, đẩy người Lê đến các vùng cao nguyên ở nửa phía nam của hòn đảo, Trong thế kỷ 18, người Lê đã nổi dậy chống lại triều đình nhà Thanh, triều đình phản ứng bằng cách đưa lính người Miêu từ Quý Châu đến đàn áp. Nhiều người Miêu sau đó đã định cư tại đảo và hậu duệ của họ tiếp tục sống ở vùng cao nguyên phía tây Hải Nam cho đến nay.

Đảo Hải Nam - Trung Quốc

Tôn Giáo

Trước khi văn hóa Hán từ nội địa xâm nhập đến, cư dân người Lê đảo Hải Nam chủ yếu sùng bái tín ngưỡng nguyên thủy (thuyết vật linh), họ thờ cúng tổ tiên, thờ cúng thiên nhiên và thờ cúng nhiều đối tượng, đây là giai đoạn tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy. Năm 748, Phật giáo Hán truyền được truyền đến đến Hải Nam, tiếp theo là Đạo giáo. Nhà sư Giám Chân đã dạt vào Hải Nam khi nỗ lực đi thuyền đến Nhật Bản lần thứ năm, góp phần vào sự hưng vượng của Phật giáo tại Hải Nam thời Đường Tống., hiện tại có 10.000 Phật tử đăng ký tại Hải Nam, còn Đạo giáo thì đã được bản địa hóa, dân gian hóa. Vào thời Tống và Nguyên, cùng với làn sóng di dân của người Hán tại đại lục, tín ngưỡng thờ Mụ tổ cũng được truyền đến đảo, với các di tích còn lại cho đến ngày nay

Hải Nam là một trạm trung chuyển của con đường tơ lụa trên biển, vì tại Hải Nam phong phú về các loại hương liệu, các thương nhân đến từ Gujarat thuộc Ấn Độ là những người đầu tiên giới thiệu Hồi giáo đến Hải Nam, những người Hồi giáo từ Trung Á và Đông Dương cũng góp phần truyền bá Hồi giáo đến Hải Nam. Hiện nay, tại hương Hồi Tân và hương Hồi Huy ở Tam Á có khoảng 6.500 người Hồi giáo, thuộc hệ phái Sunni.

Năm 1630, Giáo hội Ki-tô Bồ Đào Nha đã phái linh mục đến Hải Nam truyền giáo, từ đó Công giáo truyền đến Hải Nam. Từ lúc bắt đầu, khi bốn nước Pháp-Ý-Tây-Bồ gửi không quá 20 linh mục đến truyền giáo, cho đến thời nhà Thanh, tín hữu Công giáo trên toàn đảo đã phát triển lên hơn 5.000 người. Thời cuối Thanh đầu Dân Quốc, Giáo hội Công giáo tại Hải Nam đã mua đất, xây dựng các nhà thờ. Sau năm 1950, các linh mục nước ngoài bị trục xuất bởi một loạt lý do, các linh mục người Hán dẫn thay thế vị trí của họ, số tín hữu Công giáo giám xuống chỉ còn 4.100 người. Đạo Tin Lành truyền đến Hải Nam vào năm 1881, một mục sư quốc tịch Mỹ đã thiết lập khu hội Quỳnh Hải, do Giáo hội Trưởng Lão Mỹ lãnh đạo. Giáo đường Tin Lành đầu tiên tại Hải Nam được dựng tại Đam Châu. Từ đó, Tin Lành dần phát triển và hiện có 35.000 tín hữu tại tỉnh đảo.

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, dưới ảnh hưởng của cải cách ruộng đất và Đại Cách mạng Văn hóa, tình hình của các tôn giáo không được lạc quan. Trong cao trào của Cách mạng Văn hóa, tất cả các hoạt động tôn giáo phải ngưng lại và gần như toàn bộ các chùa miếu, đền thờ Hồi giáo và nhà thờ đã bị hư hỏng, chỉ một số lượng nhỏ tín đồ Hồi giáo và Tin Lành vẫn duy trì các hoạt động tôn giáo. Sau Cách mạng Văn hóa, hoạt động tôn giáo tại Hải Nam bắt đầu được khôi phục, hiện có cả trăm địa điểm tôn giáo với trên 30 đoàn thể tôn giáo hoạt động.

Đảo Hải Nam - Trung Quốc

Hành Chính

Với việc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền với các quần đảo trên biển Đông, tỉnh Hải Nam về lý thuyết phải quản lý cả trăm hòn đảo, đá ngầm xa bờ. Tỉnh Hải Nam có hệ thống hành chính hơi khác so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Trong khi phần lớn các tỉnh khác được chia hoàn toàn thành các đơn vị cấp địa khu, và được chia tiếp thành các đơn vị cấp huyện; thì tại Hải Nam, gần như toàn bộ các đơn vị cấp huyện (trừ bốn quận của Hải Khẩu) đều trực thuộc tỉnh một cách trực tiếp. Điều này là do Hải Nam là một tỉnh nhỏ về diện tích và dân số so với các tỉnh khác tại Trung Quốc.

Quân sự

Hải Nam là tỉnh cực nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh gồm nhiều đảo, trong đó đảo lớn nhất được gọi là đảo Hải Nam. Tỉnh lỵ là thành phố Hải Khẩu. Đảo Hải Nam là đảo lớn nhất dưới quyền kiểm soát của Trung Quốc (đảo Đài Loan lớn hơn nhưng nằm dưới quyền kiểm soát của Trung Hoa Dân Quốc). Hải Nam có vị trí nằm ở biển Đông, ngoài hải khơi và ngăn cách với bán đảo Lôi Châu của tỉnh Quảng Đông tại phía bắc bởi eo biển Quỳnh Châu. Về phía tây của đảo Hải Nam là vịnh Bắc Bộ. Ngũ Chỉ Sơn (1.876 m) là ngọn núi cao nhất đảo. Từ năm 1988, Hải Nam tách khỏi tỉnh Quảng Đông, trở thành tỉnh riêng, đồng thời là một đặc khu kinh tế của Trung Quốc.

Đảo Hải Nam có Căn cứ hải quân Du Lâm của Hạm đội Nam Hải thuộc Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và có quân cảng tàu ngầm hạt nhân chiến lược 18,221°B 109,686°Đ. Quân cảng được ước tính cao 60 foot (18 m), được xây dựng vào trong một sườn đồi gần một căn cứ quân sự. Các động có khả năng cất giấu 20 tàu ngầm hạt nhân theo quan sát từ các vệ tinh gián điệp. Các tàu ngầm đặt ở quân cảng có các lên lửa đạn đạo hạt nhân và đủ lớn để chứa các tàu sân bay.

Kinh Tế

Kinh tế Hải Nam chủ yếu dựa vào nông nghiệp, và có trên một nửa hàng xuất khẩu của tỉnh đảo là nông sản. Tuy nhiên, kể từ khi được nâng lên thành một tỉnh, Hải Nam đã trở thành "đặc khu kinh tế" lớn nhất của Trung Quốc, mục tiêu là để thúc đẩy sự phát triển dựa trên các nguồn tài nguyên phong phú của hòn đảo. Trước đó, tỉnh đảo bị nhiều người xem là một khu vực "hoang dã", phần lớn không bị ảnh hưởng bởi công nghiệp hóa; thậm chí đến nay vẫn có tương đối ít các nhà máy tại tỉnh. chương trình đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hải Nam, tận dụng lợi thế các bãi biển nhiệt đới và các cánh rừng tươi tốt. Chính quyền trung ương đã khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Hải Nam và cho phép tỉnh đảo phát triển một nền kinh tế dựa phần lớn vào các nguồn lực của thị trường.

Việc phát triển công nghiệp tại Hải Nam vẫn còn hạn chế, chủ yếu vẫn chỉ là khai thác khoáng sản như quặng sắt và trồng các cây công nghiệp như cao su. Từ thập niên 1950, tại Hải Khẩu đã có một số nhà máy sản xuất máy móc, thiết bị nông nghiệp và dệt may để tiêu thụ trên đảo. Một khó khăn lớn đối với việc mở rộng lĩnh vực công nghiệp là nguồn cung điện không đầy đủ. Phần lớn lượng điện tại đảo có nguồn gốc từ thủy điện, mà nó lại phụ thuộc vào biến động dòng chảy theo mùa của các con sông.

Tháng 12 năm 2009, chính phủ Trung Quốc đã công bố kế hoạch của mình nhằm biến Hải Nam thành một "điểm đến hành trình quốc tế" vào năm 2020. Thông báo này đã khiến kinh tế của tỉnh đảo có sự đột biến, với mức tăng đầu tư năm trên năm là 136,9% trong ba tháng đầu năm 2010. Lĩnh vực bất động sản chiếm trên một phần ba tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Trước đó, năm 1990, tỉnh Hải Nam là nơi diễn ra vỡ bong bóng bất động sản lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại

Đảo Hải Nam - Trung Quốc

Hải Nam có dự trữ khai thác thương mại trên 30 loại khoáng vật. Người Nhật Bản đã khai thác quặng sắt tại Hải Nam trong thời gian họ chiếm giữ hòn đảo trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và đây cũng là loại khoáng sản quan trọng nhất của Hải Nam. Các loại khoáng vật quan trong khác tại tỉnh đảo là titan, mangan, volfram, bô xít, molypden, coban, đồng, vàng và bạc. Hải Nam có trữ lượng lớn về than non và đá phiến dầu, người ta cũng đã tìm thấy dầu mỏ và khí thiên nhiên ngoài khơi vùng biển Hải Nam. Trên các hòn đảo tranh chấp ở biển Đông mà chính phủ Trung Quốc quy thuộc tỉnh Hải Nam chỉ có rất ít tài nguyên như phân chim song vùng biển xung quanh chúng có nhiều loại khoáng sản, Bộ Địa chất và Tài nguyên Khoáng sản Trung Quốc ước tính vùng quần đảo Trường Sa có trữ lượng dầu và khí đốt tự nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỉ tấn so với con số 13 tỉ tấn của Kuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới. Trung Quốc cũng từng tiến hành mời thầu dầu khí tại khu vực quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra tại biển Đông cũng có tài nguyên băng cháy, Trung Quốc tuyên bố đã tìm thấy băng cháy ở phía bắc biển Đông từ năm 2007, với trữ lượng ước tính khoảng 19,4 tỉ m³. Các khu rừng nguyên sinh trên đảo Hải Nam có 20 loài cây có giá trị thương mại, trong đó có tếch và đàn hương.

Do Hải Nam có khí hậu nhiệt đới, các ruộng lúa xuất hiện phổ biến ở các vùng đất thấp phía đông bắc và các thung lũng núi phía nam. Bên cạnh lúa, các cây trồng quan trọng khác có thể kể đến là dừa, cọ, sisal, hoa quả nhiệt đới (như dứa, nông sản mà Hải Nam dẫn đầu cả nước), hồ tiêu, cà phê, trà, đào lộn hột, và mía. Đầu thế kỷ 20, những Hoa kiều hồi hương từ Mã Lai thuộc Anh đã đưa cây cao su đến đảo; sau năm 1950, các nông trường quốc doanh trồng cao su được phát triển và Hải Nam nay sản xuất ra một lượng mủ cao su đáng kể cung cấp cho thị trường Trung Quốc. Ớt Hoàng Đăng Hải Nam, một loại ớt đặc hữu tại Hải Nam, được trồng ở phía đông nam và tây nam của đảo.

Cá mú, cá thu và cá ngừ là chiếm phần lớn sản lượng đánh bắt xa bờ của ngư dân Hải Nam. Người dân Hải Nam cũng nuôi sò điệp và ngọc trai trong các vịnh hay vũng nông để phục vụ cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Sản lượng tôm được ước tính đạt 120.000 đến 150.000 tấn (130.000 đến 170.000 short ton) trong năm 2007, trên 50% trong số đó được xuất khẩu. Hải Nam có trên 400 trại giống tôm, hầu hết nằm giữa Văn Xương và Quỳnh Hải. Sản lượng cá rô phi năm 2008 tại Hải Nam là 300.000 tấn (330.000 short ton). Hòn đảo có khoảng 100.000 hộ trang trại nuôi cá thương mại hoặc mang tính địa phương.

Năm 2011, có trên 30 triệu khách thăm quan đã đến thăm Hải Nam, hầu hết trong số họ đến từ đại lục Trung Quốc. Trong số 814.600 Lữ khách hải ngoại, 227.600 người đến từ Nga, tăng trưởng 53,3 so với năm trước đó. Tổng doanh thu từ trải nghiệm vào năm 2011 là 32 tỉ NDT (4,3 tỉ USD), tăng 25% so với năm 2010. Người ta thường chia đảo Hải Nam thành 8 vùng chương trình : Hải Khẩu và vùng lân cận (Hải Khẩu, Quỳnh Sơn, Định An); đông bắc (Văn Xương); Bờ biển Trung Đông bộ (Quỳnh Hải, Định An); bờ biển Nam Đông bộ; Nam bộ (Tam Á); bờ biển Tây Bộ (Lạc Đông, Đông Phương, Lăng Thùy, Xương Giang); tây bắc (Đam Châu, Lâm Cao, Trừng Mại); và Cao nguyên Trung tâm (Bạch Sa, Quỳnh Trung, và Ngũ Chỉ Sơn/Đồn Xương).

Để khuyến khích cộng đồng du thuyền quốc tế, các quy định mới của Hải Nam nay cho phép du thuyền ngoại quốc ở lại tổng cộng 183 ngày mỗi năm, tối đa 30 ngày mỗi lần. 13 cảng sẽ được xây dựng quanh đảo để đáp ứng thị trường hành trình mới.

Nguồn Wikipedia.

Đảo Hải Nam Trung Quốc

Đảo Hải Nam Trung Quốc
29 3 32 61 bài đánh giá
==HOTLINESHOW==